Ma Chủng

Chương 2: Ngự Ma Tông

Tương tự như bao môn phái, Ngự Ma Tông tuyển chọn đệ tử từ phàm nhân là chính nhưng cách thức lại có phần khác biệt. Hiện nay, Ngự Ma Tông tuyển chọn đệ tử theo bốn cách: từ các thế gia ma đạo, từ tuyển chọn công khai, từ các thế lực phụ thuộc và từ Lò Luyện Cổ.

Ngự Ma Tông có bảy thế gia ma đạo, Ma gia của Ma tam thiếu là một trong số đó. Đây được tính là nguồn tìm kiếm đệ tử vô cùng chất lượng do từ nhỏ, các đệ tử dòng chính và phân nhánh đều đã được rèn luyện thể chất và học hấp nạp khí cơ bản nên thực lực cũng vượt trội hơn rất nhiều so với đệ tử bình thường. Những người này chỉ việc làm khảo hạch tại gia dưới sự giám sát của các chấp sự Ngự Ma Tông, vượt qua sẽ nhập môn, không vượt thì ở lại gia tộc.

Với vị thế của các thế gia ma đạo, cho dù không đạt đủ điều kiện tới Ngự Ma Tông thì lưu lại phục vụ thế gia cũng không đến nỗi tệ. Suy cho cùng, môn phái hay thế gia cũng chỉ là cách gọi mà thôi, cơ chế hoạt động vẫn phụ thuộc vào thực lực. Chỉ cần mạnh và có ích thì không lo thiếu đất trổ tài. Họa chăng mà nói, chênh lệch chỉ có mỗi tiềm lực phát triển.

Về phần tuyển chọn công khai thì phổ quát hơn. Cứ mỗi mười năm, Ngự Ma Tông sẽ cử các chấp sự rải quân về tứ phương tám hướng trong lãnh thổ cai trị để tuyển chọn đệ tử từ thường dân. Công cuộc này làm khá mất thời gian, nhiều khi phải tốn mấy tháng tới một năm, nhưng bù lại, đây là nguồn đệ tử đông đảo và chủ yếu của môn phái nên cao tầng Ngự Ma Tông rất chú trọng, tuyệt đối không lơ là. Bởi nếu may, nhiều khi bọn họ sẽ tìm được đệ tử có tư chất thiên tài để bồi dưỡng làm yếu nhân trong tương lai.

Ngự Ma Tông là thế lực lớn, lãnh địa cai trị của bọn họ cũng rộng rãi bạt ngàn, nhiều khi đi mãi cũng chưa chắc đã đi đến tận cùng. Mà Ngự Ma Tông lại không dư thừa nhân lực nên ngoại trừ chân sơn, bọn họ cũng hỗ trợ cho nhiều thế lực khác mọc lên để thay mình quản địa hạt được phân chia. Loại chính sách chia để trị này rất phổ biến trong giới tu hành, chủ yếu là làm giảm việc tay chân của mình lại để dành toàn lực tập trung tìm kiếm đại đạo.

Các thế lực phụ thuộc sẽ tìm kiếm và bồi dưỡng đệ tử của riêng mình, Ngự Ma Tông sẽ không can thiệp nội bộ. Tuy nhiên, nếu các thế lực phát hiện được hạt giống tốt thì có thể dâng lên cho Ngự Ma Tông. Tùy thuộc vào chất lượng mà nhiều khi các thế lực này có thể đổi lại không ít tài nguyên tốt để tu hành. Đại khái là trao đổi công bằng, đôi bên cùng lợi.

Ba cách trên là phương thức rất phổ thông, không quản chính đạo hay ma đạo, đôi bên đều giống hệt nhau. Riêng cách cuối cùng này mới thực sự lộ ra bản chất của ma đạo.

Đấy là Lò Luyện Cổ.

Trong luyện độc, để tạo ra loại độc mạnh mẽ và bá đạo nhất, độc sư thường sưu tầm nhiều loại độc vật khác nhau rồi cho vào một hũ lớn, sau để chúng tự cắn xé và thôn phệ lẫn nhau để gia tăng độc tính. Đồng nghĩa, con còn sót lại ở trong hũ chính là con độc nhất.

Ngự Ma Tông áp dụng phương thức luyện độc ấy vào chính con người. Hằng năm, bọn họ sẽ cho một đội ngũ âm thầm dung nhập vào thế giới phàm nhân, tìm kiếm những đứa trẻ cơ nhỡ không nơi nương tựa, chỉ biết lang thang đầu đường xó chợ kiếm ăn qua ngày.

Ngự Ma Tông sẽ bắt nhốt bọn chúng vào trong một hang động sâu với nhiều rắn rết và dã thú săn mồi rồi làm đủ mọi cách để chúng tự mình sinh tồn trong khu vực đó. Một khi bọn chúng thích nghi được với cuộc sống trong đó, Ngự Ma Tông sẽ lại giở trò để bọn chúng tiếp tục giết hại lẫn nhau và tinh gọn quân số.

Người sống sót thường không nhiều, có khi chỉ được vài chục, thậm chí ít hơn. Những người sống sót sẽ được ra khỏi hang và đưa về Ngự Ma Tông, trở thành đệ tử như bao người khác.

Đối với Ngự Ma Tông, đây là một nguồn đệ tử rất chất lượng khi mà đám khác chưa quen với việc giết chóc thì đám này đã sớm giết người như ngóe, giết đến mức sẵn sàng làm mọi cách để có thể sinh tồn. Đồng nghĩa, đây là lứa đệ tử có xác suất thành đệ tử ngoại môn cao nhất.

Ngự Ma Tông ghi chép lại đầy đủ lai lịch của mỗi một đệ tử mình chọn nên Hồ trưởng lão biết rõ xuất thân của Hứa Tử Du. Lão rất kỳ vọng ở hắn, ai ngờ đâu hắn lại nhát như thỏ đế.

Hứa Tử Du bị bắt năm sáu tuổi, vừa hay là đợt luyện cổ quy mô lớn và lâu nhất của kể từ khi Ngự Ma Tông khai phái. Hắn sinh tồn trong Lò Luyện Cổ gần mười năm trời mới được đưa về chân sơn. Khi đấy, lứa của hắn chỉ có đúng mười bảy người sống sót. Hiện nay, mười sáu người trong đó đã sớm trở thành đệ tử ngoại môn, duy chỉ có một đứa vẫn còn loay hoay làm công việc tạp dịch thấp kém, đã thế lại còn… chậc, chẳng buồn nói thêm.

Dĩ nhiên, Hồ trưởng lão rất tin tưởng vào phương pháp luyện cổ của Ngự Ma Tông nên không tin Hứa Tử Du là đứa thỏ đế. Vì vậy, trong suốt một năm qua, không ngày nào là lão không âm thầm quan sát hắn, xem thử hắn định diễn cái vai ngây thơ thuần khiết này đến bao giờ. Nhưng có vẻ như lão mới là người ngây thơ. Hứa Tử Du chẳng có dáng vẻ gì là diễn cả.

Mọi ghi chép liên quan đến Lò Luyện Cổ đều là thông tin cơ mật, cấp độ của Hồ trưởng lão chưa đủ để xem thử Hứa Tử Du đã làm cái trò gì mà sinh tồn được ở trong cái hang động khốc liệt đó. Vì vậy, trước mắt lão chỉ xem hắn gặp may nên sống sót thôi.

… Ừ, loại vận may đó chắc phải nghịch thiên lắm.

“Hôm nay tới đây, ngươi về nghỉ ngơi trước đi.”

Hồ trưởng lão kiểm tra lại tiến độ sửa chữa rồi gật gù hài lòng. Lần này không ra sai sót gì.

Lão ném một cục linh thạch hạ phẩm cho Hứa Tử Du, bảo: “Phần thưởng của ngươi.”

Hứa Tử Du vội bắt lấy rồi chắp tay khom mình: “Đa tạ trưởng lão. Đệ tử xin phép lui.”

“Khoan đã.” Chợt Hồ trưởng lão gọi lại: “… Bao giờ ngươi rời khỏi đây?”

Hứa Tử Du chớp mắt một lúc, giọng bỗng run thấy rõ:

“T-trưởng lão, ngài đ-đuổi đệ tử sao?”

Mặt Hồ trưởng lão đanh lại. Lão đỡ trán rồi hít thở thật sâu, cố gắng kiềm chế để không tát chết hắn ngay tại chỗ: “Ngươi đã Định Pháp sơ cảnh, tiêu chuẩn từ sớm đã ngang ngửa đệ tử ngoại môn. Cho dù ngươi yếu như sên, chỉ cần thành đệ tử ngoại môn thì mấy tên vừa rồi dù bực tức thế nào cũng sẽ không đánh ngươi thành bộ dạng như vậy.”

Hứa Tử Du “à” một tiếng đã hiểu, nguyên lai Hồ trưởng lão nói chuyện này.

Hắn gãi má xấu hổ.

“Trưởng lão, ngài biết đấy… dạo này tông môn thu nhận nhiều đệ tử hơn bình thường, mà số lượng động phủ lại eo hẹp. Đệ tử yếu thế này, không tranh nổi với bọn họ, mà ngủ lang bên ngoài nhiều khi lại gặp ám toán, mất mạng vô ích. Ở lại Tụ Linh Sơn ngoại trừ có mật độ linh khí cao, đệ tử còn có chỗ ăn chỗ ngủ, ngoài ra còn được trưởng lão chỉ điểm tu luyện. So với tự bươn chải ngoài kia… lưu lại đây không phải sướng hơn sao.”

À, còn chưa kể mỗi lần sửa chữa Tụ Linh Trận lại còn nhận thêm linh thạch tu hành. Tuy rằng tổng số linh thạch nhận được không thể sánh với phần chênh lệch bổng lộc giữa hai thân phận đệ tử nhưng Hứa Tử Du được bù đắp bằng linh khí của Tụ Linh Sơn.

Đệ tử tạp dịch nghe thì thấp kém, nhưng nếu đặt ở Tụ Linh Sơn thì chưa chắc.

Hồ trưởng lão: “…” Nghe cũng hợp lý nhưng tự dưng lại thấy hèn hèn thế nào.

Hứa Tử Du phân tích rất chính xác. Đó giờ Hồ trưởng lão không để ý mấy, nhưng nghe hắn giải thích thì lão chiêm nghiệm lại. Cũng phải, đệ tử ngoại môn bình thường làm gì có cơ hội được tu hành giả Tiềm Hư trung cảnh như lão chỉ điểm thường xuyên.

Thậm chí, với vốn trận pháp què quặt Hứa Tử Du học được từ Hồ trưởng lão, vốn tri thức trận pháp của hắn có khi còn cao hơn cả đệ tử ngoại môn. Các trận pháp bình thường nhiều khi không ngăn cản nổi bước chân của hắn.

Chưa kể, tu hành giả phụ thuộc rất nhiều vào mật độ linh khí để tu hành, cả ngoại sơn này làm gì còn chỗ nào có linh khí tập trung cao như Tụ Linh Sơn của Hồ trưởng lão chứ.

“Ngươi… khôn lắm.”

Hồ trưởng lão chỉ tay liên tục vào Hứa Tử Du, hiếm lắm mới khen được một câu. Kể ra mà nói, lão không nhìn nhầm người. Hắn vẫn là đứa sáng dạ, nếu bỏ được cái tật thỏ đế nhát cáy kia thì không khéo sẽ là một hạt giống tốt cho Ngự Ma Tông.

Đáng tiếc, đây là nơi cá lớn nuốt cá bé, nhát thế kia không nên xông pha vào chiến trường ngoại môn, thế lại mất mạng vô ích. Trong khi đó, Tụ Linh Sơn lại thiếu người.

Không bàn mà hợp, Hồ trưởng lão không nhắc lại chuyện đó nữa. Lão lấy cuốn sách đọc khi chiều cho Hứa Tử Du: “Đây là Nhập Môn Ma Công, ngươi về xem cho kỹ rồi hẵng luyện. Chỗ nào không hiểu thì đến tìm lão phu, nhưng mỗi ngày chỉ được hỏi một lần.”

Nghe vậy, Hứa Tử Du liền cả kinh. Hắn nhìn nghiêng ngó dọc rồi tiếp cận lão, hỏi nhỏ:

“Trưởng lão, không phải có quy định không được truyền công pháp cho đệ tử tạp dịch à?”

Hồ trưởng lão đập quyển sách vào đầu hắn, mắng: “Biết đọc chữ thì đọc cho trót. Tông môn quy định không được truyền cho tu hành giả dưới Định Pháp cảnh, chứ không phân nhóm đệ tử. Tạp dịch hay ngoại môn, chỉ cần là Định Pháp, ngươi liền đủ tư cách.”

Hứa Tử Du xoa đầu mình rồi cười hì hì, hắn nhanh chóng nhận lấy rồi cảm tạ.

Hồ trưởng lão vuốt râu, lườm hắn một lúc rồi lắc đầu: “Không còn việc gì nữa thì cút đi.”

“Đệ tử xin cáo lui.”

Hứa Tử Du hành lễ rồi trở về động phủ của mình trong Tụ Linh Sơn. Không gian bên trong động không lớn nhưng dành cho một người sống thì quá mức thừa thãi, nhiều khi còn rộng hơn cả động phủ của đệ tử ngoại môn.

Cũng phải thôi, động phủ này vốn dành cho mười đệ tử tạp dịch chen chúc nhau mà. Chẳng qua tình hình của Tụ Linh Sơn đặc biệt, chỉ có mỗi mình tạp dịch Hứa Tử Du nên hắn mới có được ưu đãi lớn như thế này.

Vừa nhai Ích Cốc Đan, Hứa Tử Du vừa lật Nhập Môn Ma Công, nghiền ngẫm từng chữ một dưới ngọn đèn lửa bập bùng. Đôi mắt hắn lóe lên tia tinh minh rồi biến mất vào màn đêm...